Vai trò của các quy định thương mại trong bảo vệ môi trường
Do các chính sách khí hậu hiện tại, cộng đồng toàn cầu đang trải qua mức tăng nhiệt độ khoảng 3 độ C so với mức thời kỳ tiền công nghiệp.
Vai trò của các quy định thương mại trong bảo vệ môi trường
Các quốc gia cần tăng cường hành động về môi trường và khí hậu. Do các chính sách khí hậu hiện tại, cộng đồng toàn cầu đang trải qua mức tăng nhiệt độ khoảng 3 độ C so với mức thời kỳ tiền công nghiệp.
Khoảng 1 triệu loài động thực vật đang bị đe dọa tuyệt chủng do các hoạt động của con người, có thể ảnh hưởng đến an ninh lương thực và sinh kế. Nhựa và các dạng ô nhiễm khác đang phá hủy tài nguyên đất và nước trên khắp thế giới.
Hiện tại, cần phải gắn thương mại và đầu tư với các Mục tiêu Phát triển Bền vững. Thương mại toàn cầu đã đưa hàng triệu người thoát khỏi đói nghèo và thúc đẩy sự đổi mới. Với tốc độ tăng trưởng liên tục, cần nỗ lực để đảm bảo rằng nó cũng thúc đẩy các hành động vì môi trường.
Bản mô tả này tóm tắt các nỗ lực sử dụng các cơ chế kinh doanh để hỗ trợ các mục tiêu môi trường và vạch ra năm cách thức mà việc áp dụng các quy tắc thương mại có thể thúc đẩy một nền kinh tế toàn cầu xanh hơn là được.
Những đề xuất này được đưa ra với lý do ngày càng quan tâm đến vấn đề vai trò của chính sách thương mại trong việc giải quyết các thách thức toàn cầu đối với khu vực công và tư nhân. Nó cũng cung cấp các đề xuất để các bên liên quan tham gia tốt hơn nhằm cải thiện mối quan hệ giữa các quy tắc kinh doanh và hành động bền vững.
Khuyến khích hành động sẽ chỉ đáng tin cậy nếu các chính phủ đạt được thỏa thuận chấm dứt trợ cấp thủy sản có hại tại Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong năm nay, phù hợp với mục tiêu được đề ra trong SDG 14.6.
Một phần ba nghề cá trên thế giới vẫn bị ảnh hưởng bởi việc khai thác quá mức, nhưng nước này nhận được khoản viện trợ công ước tính khoảng 22 tỷ đô la mỗi năm.
Các nhà hoạch định chính sách thương mại phải thể hiện khả năng của họ trong việc thực hiện các mục tiêu quan trọng về môi trường.
Những nỗ lực đã thực hiện cho đến nay trong tổ chức thương mại thế giới
Mối liên hệ giữa tự do hóa thương mại và bảo vệ môi trường đã được thừa nhận từ lâu. Các chính phủ đã công nhận rõ ràng trong phần mở đầu của Hiệp định Marrakesh, theo đó Tổ chức Thương mại Thế giới được thành lập, rằng thương mại phải phù hợp với phát triển bền vững và nỗ lực bảo vệ và bảo vệ môi trường.
Ủy ban Thương mại và Môi trường (CTE) được thành lập vào thời điểm WTO được thành lập và các cuộc họp cấp bộ trưởng sau đó đã nhấn mạnh tầm quan trọng của một hệ thống thương mại hỗ trợ phát triển bền vững. Sự gia tăng các tranh chấp trong WTO cũng đã hỗ trợ phần lớn cho các mục tiêu chính sách môi trường nhằm đảm bảo rằng các biện pháp liên quan được thực hiện một cách công bằng.
Các cuộc đàm phán đa phương để đạt được thỏa thuận giảm thuế đối với hàng hóa thân thiện với môi trường cuối cùng đã đánh dấu các ưu tiên thương mại và cũng được thừa nhận trong chính trường trong nước.
CTE tỏ ra là một diễn đàn hữu ích để trao đổi ý kiến hơn là các hành động đầy tham vọng. Vẫn còn nhiều việc phải làm đối với các chính sách thương mại để đáp ứng các cam kết về biến đổi khí hậu của chính phủ.
Tuy nhiên, các nhà hoạch định chính sách thương mại toàn cầu ngày càng quan tâm đến việc tạo điều kiện thuận lợi cho việc đạt được các mục tiêu về môi trường. Một số thành viên của WTO đang xem xét khởi động các cuộc đàm phán về thương mại và giảm thiểu chất thải nhựa, với một liên minh khác đưa ra đề xuất về các hành động rộng lớn hơn đối với thương mại và môi trường.
Vai trò của các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA)
Nhiều FTA khu vực và song phương bao gồm các chương tập trung vào các vấn đề môi trường, mặc dù mức độ tham vọng và hiệu quả khác nhau. Các chương này đề cập đến một loạt các vấn đề như buôn bán trái phép động vật hoang dã, thực thi luật môi trường, hàng rào phi thuế quan đối với thương mại hàng hóa môi trường, cải thiện chất lượng không khí và giảm thiểu rác thải biển.
Các FTA ràng buộc các cam kết về môi trường như Hiệp định Hoa Kỳ-Mexico-Canada (USMCA), Hiệp định Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). thực thi. Hơn nữa, nhiều FTA chỉ yêu cầu hợp tác hơn là các cam kết ràng buộc.
Một số hiệp định thương mại, chẳng hạn như Hiệp định Thương mại Kinh tế Toàn diện Liên minh Châu Âu-Canada (CETA), đề cập rõ ràng đến biến đổi khí hậu, có liên quan đến các chế độ biến đổi khí hậu quốc tế hiện tại và tương lai, cũng như thương mại năng lượng tái tạo. các khía cạnh liên quan.
Ngoài ra, một nhóm sáu nền kinh tế gần đây đã bắt đầu các cuộc đàm phán hướng tới một thỏa thuận về Biến đổi khí hậu, Thương mại và Bền vững (ACCTS).
Theo báo cáo, thỏa thuận bao gồm xóa bỏ thuế quan đối với hàng hóa môi trường, cam kết về dịch vụ môi trường, hợp lý hóa trợ cấp nhiên liệu hóa thạch và các chương trình dán nhãn sinh thái tự nguyện.
Kể từ năm 2016, các nền kinh tế Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) đã cam kết cắt giảm thuế quan từ 5% trở xuống đối với danh sách 54 hàng hóa môi trường nhằm thúc đẩy thương mại xanh trong khu vực trị giá 300 tỷ USD.
Chính sách kinh doanh vì môi trường
1. Tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại hàng hóa và dịch vụ môi trường, tạo ra nền kinh tế chu kỳ
Việc khơi thông dòng chảy của hàng hóa và dịch vụ môi trường trên khắp thế giới sẽ là yếu tố quan trọng trong những năm tới. Thuế quan cao hơn đối với hàng hóa sử dụng năng lượng sạch làm tăng chi phí phát triển bền vững. Các hạn chế thương mại dịch vụ cũng làm tăng chi phí dự án trong các lĩnh vực môi trường.
Điều này bao gồm các dịch vụ môi trường trực tiếp như xử lý chất thải, cũng như các dịch vụ gián tiếp liên quan đến lắp ráp, lắp đặt, thử nghiệm thành phần, hỗ trợ kỹ thuật và nghiên cứu và phát triển các sản phẩm môi trường. Trong bối cảnh của mạng lưới sản xuất toàn cầu, các quy định trong nước cản trở dòng hàng hóa qua biên giới có thể cản trở nỗ lực mở rộng nền kinh tế theo chu kỳ.
Các chính phủ có thể hành động đơn phương hoặc là một phần của nhóm để xóa bỏ thuế quan đối với các mặt hàng liên quan đến các mặt hàng thân thiện với môi trường bao gồm năng lượng tái tạo, hiệu quả năng lượng, xử lý chất thải nhựa, tái chế, kiểm soát ô nhiễm không khí, v.v. Tương tác với ngành cũng sẽ rất quan trọng trong việc xác định các công nghệ mới nhất đang đối mặt với các rào cản thương mại.
Các chính phủ cần nỗ lực thực thi các cam kết về dịch vụ môi trường và thống nhất các định nghĩa để tránh mơ hồ về phạm vi nghĩa vụ, loại bỏ các rào cản đối với việc thành lập các công ty con để cung cấp dịch vụ môi trường và giải quyết các vấn đề liên quan đến chuyển dữ liệu. Cập nhật phần mềm, giám sát hiệu suất, v.v. . có thể gây ra gián đoạn.
Sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế về các quy định ảnh hưởng đến hàng hóa và dịch vụ môi trường và khuyến khích các bên liên quan ở các thị trường khác lấp đầy khoảng trống trong các tiêu chuẩn quốc tế.
Thúc đẩy các sáng kiến dán nhãn sinh thái minh bạch và không phân biệt đối xử. Làm việc để giảm bớt các rào cản thương mại đối với thử nghiệm thị trường sản phẩm (quy trình đánh giá sự phù hợp) đối với hàng hóa xanh.
Các chính phủ nên làm việc với các ngành công nghiệp và các chuyên gia khác để xác định những thách thức và thúc đẩy một nền kinh tế tuần hoàn.
Các hành động nên bao gồm việc dỡ bỏ các rào cản đối với thương mại hàng hóa tái sản xuất để kéo dài vòng đời của sản phẩm và cung cấp các cơ sở thương mại để phế liệu và các vật liệu tái chế khác được tái chế và bán làm nguyên liệu thứ cấp.
Các cuộc thảo luận với ngành công nghiệp và các chuyên gia khác có thể thông báo cho các nhà hoạch định chính sách về các quy định phức tạp hoặc không nhất quán giữa các thị trường, bao gồm cả các rào cản thương mại mới xuất hiện.
2. Báo cáo, cắt giảm và loại bỏ trợ cấp nhiên liệu hóa thạch
Các chính phủ G20 đã cam kết hạn chế và loại bỏ các khoản trợ cấp nhiên liệu hóa thạch kém hiệu quả gây tiêu hao không cần thiết. Trợ cấp này có nhiều hình thức, bao gồm chuyển tiền mặt, tín dụng thuế và giảm giá, đồng thời hạ giá xăng dầu.
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) ước tính khoản trợ cấp như vậy là 526 tỷ USD mỗi năm. Giảm các khoản trợ cấp này cũng sẽ làm tăng chi phí sản xuất nhựa mới, điều này sẽ khuyến khích tái chế nhựa.
Một số chính phủ đang tham gia các cuộc thảo luận của WTO để cải cách các khoản trợ cấp nhiên liệu hóa thạch không hiệu quả.
Các chính phủ G20 đã khởi động việc xem xét trợ cấp nhiên liệu hóa thạch, với mục tiêu hoàn thành vào năm 2025 và có thể được đẩy nhanh hơn nữa.
Các sáng kiến của WTO có thể thúc đẩy tính minh bạch và báo cáo, đồng thời đẩy nhanh việc đánh giá các tác động đối với thương mại và nguồn lực từ các khoản trợ cấp này. Các ngành công nghiệp có thể nêu bật tác động của các khuyến khích thị trường đầu tư vào công nghệ sạch.
3. Đối thoại về chính sách khí hậu
Các chính phủ thành viên đã đệ trình các khoản đóng góp được xác định trên phạm vi quốc gia theo Thỏa thuận Paris về Biến đổi Khí hậu và đã quyết định cập nhật chúng 5 năm một lần kể từ năm 2020. Một số quốc gia lo ngại rằng các cam kết thấp hơn từ các quốc gia khác có thể làm giảm khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp trong nước.
Khuyến khích đối thoại giữa các nhà hoạch định chính sách về biến đổi khí hậu và doanh nghiệp nhằm tạo sự phù hợp giữa các quy tắc thương mại và các mục tiêu về biến đổi khí hậu.
Thiết lập các thỏa thuận định giá carbon và giới hạn điều chỉnh carbon sao cho phù hợp với các quy tắc thương mại quốc tế và công bằng cho các đối tác thương mại. Cần tránh gánh nặng hành chính quá mức, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
4. Mua sắm trước cho Chính phủ xanh
Mua sắm công toàn cầu ước tính khoảng 9,5 nghìn tỷ USD hàng năm. Các chính sách mua sắm xanh của chính phủ có thể thúc đẩy việc sử dụng các sản phẩm xanh và phát triển công nghệ sạch.
Ví dụ, các chính sách mua sắm xanh của chính phủ có thể giúp giảm ô nhiễm nhựa bằng cách loại bỏ việc sử dụng nhựa sử dụng một lần, trong khi các hướng dẫn ở một số thị trường có thể đặt ra các tiêu chuẩn bền vững cho việc mua phương tiện, điện, v.v.
Tổ chức Thương mại Thế giới có 48 bên ký kết Hiệp định Mua sắm Công và tạo điều kiện cho các cuộc đấu thầu lên tới 1,7 nghìn tỷ đô la hàng năm. Các Bên cũng đã đồng ý hợp tác trong Chương trình Mua sắm Thường trực như một phần của quá trình cập nhật liên tục. Những nỗ lực này bao gồm việc xác định các chính sách khuyến khích mua sắm hiệu quả và bền vững phù hợp với các nghĩa vụ thương mại và là một phần hữu ích trong các cuộc đàm phán của WTO.
5. Cải thiện sự hợp tác
Hợp tác quốc tế là điều cần thiết để đối phó với các rủi ro do các hiểm họa môi trường gây ra. Bối cảnh thương mại không đầy đủ được đưa ra trong các cam kết về khí hậu. Trong khi hầu hết các hiệp định thương mại đều có đề cập đến biến đổi khí hậu, các cam kết gần đây nhằm thúc đẩy công nghệ sạch và năng lượng tái tạo là rất đáng khen ngợi. Nó tạo cơ hội cho sự hợp tác nhiều hơn giữa các chính phủ, doanh nghiệp, nhà khoa học và xã hội dân sự nhằm điều chỉnh các chính sách thương mại và kinh doanh với các mục tiêu bền vững về môi trường.
Tăng cường hợp tác giữa các lĩnh vực chính sách kinh doanh, môi trường và biến đổi khí hậu để xác định những điểm không nhất quán và đảm bảo cổ tức cho tất cả các bên liên quan. Muốn vậy, cần phải giải quyết nhu cầu của các nước đang phát triển và nhu cầu chính đáng của những người lao động dễ bị tổn thương.
Các chính phủ nên thiết lập các cơ chế hợp tác với các bên liên quan khác nhau bao gồm các chuyên gia, khu vực tư nhân và xã hội dân sự. Lấy cảm hứng từ cộng đồng khí hậu để thiết lập một cơ chế chính thức cho hành động và đóng góp ý kiến từ các bên liên quan ngoài nhà nước liên quan đến thương mại toàn cầu và các cuộc thảo luận về môi trường, như đã được thực hiện trong Chương trình hành động Lima-Paris. Điều này sẽ đảm bảo sự liên kết tốt hơn giữa hoạch định chính sách quốc tế với các công ty và các sáng kiến phi lợi nhuận với chuỗi giá trị xanh.
Xem thêm Những quy định mới về Giấy phép bảo vệ môi trường theo Luật Bảo vệ môi trường 2020
CÔNG TY CP TƯ VẤN ĐẦU TƯ & THIẾT KẾ XÂY DỰNG MINH PHƯƠNG
Địa chỉ: Số 28B Mai Thị Lựu, Phường Đa Kao, Q.1, TPHCM
Hotline: 0903649782 - (028) 3514 6426
Email: nguyenthanhmp156@gmail.com
Xem thêm